Ở tuổi 16, Rooney đá cặp với Kevin Campbell tại Everton. Rồi
anh đá cặp với Michael Owen ở ĐTQG Anh. Ruud van Nistelrooy,
Dimitar Berbatov, Chicharito, Danny Welbeck… lần lượt là đồng
đội của Rooney. Các HLV cứ xếp đội hình theo từng hoàn cảnh cụ
thể, và Rooney chơi bóng như một tiền đạo cắm, tiền đạo lùi,
cầu thủ số 10, thậm chí đá cánh…
Chưa bao giờ Rooney biết mình thích hợp với vị trí nào, vai trò
gì, trong lối chơi nào. Và đấy chẳng bao giờ là chuyện lạ. Bóng
đá Anh chính là như vậy.
Cựu danh thủ Anh David Platt chỉ phát hiện ra sự thật kỳ lạ ấy
sau những năm tháng lăn lộn ở Serie A, qua các màu áo Bari,
Juventus, Sampdoria. Ông thật sự “mở mắt”: thì ra vấn đề chiến
thuật quan trọng vô cùng. Platt nói: “Trong thế hệ của mình,
chúng tôi (các cầu thủ Anh) chẳng bao giờ quan tâm đến chiến
thuật. Chúng tôi ra sân theo sơ đồ 4-4-2, ai đứng đâu, làm gì,
đấy luôn là điều định sẵn. Cứ như chơi bóng nghĩa là chơi theo
4-4-2. Ai còn băn khoăn về việc phải đứng đâu, làm gì, cứ hỏi
HLV một câu là xong”.
Tất nhiên, Rooney thuộc thế hệ sau, hiện đại hơn Platt. Thứ
bóng đá của Rooney cũng khác hẳn dưới thời Platt. Nhưng điều
cốt lõi thì vẫn vậy: lăn tăn làm gì chuyện mình nên đứng ở đâu,
phù hợp với vai trò nào! Ngày xưa, Alex Ferguson là một tiền
đạo… kém. Muốn có bóng mà không bị kèm quá sát, ông phải lùi
về một tí, làm cặp tiền đạo trong sơ đồ 4-4-2 “cổ điển” trở nên
mất cân bằng. Ông tự phát hiện vai trò “tiền đạo lùi” cho mình.
Đấy là lý do vì sao sau này Ferguson luôn xếp đội hình 4-4-1-1.
Ông xếp cầu thủ trẻ Rooney vào vị trí tiền đạo lùi vì đương
nhiên phải ưu tiên vị trí tiền đạo cắm cho ngôi sao Ruud van
Nistelrooy. Từ đó trở đi (đã hơn chục năm), Rooney là một tiền
đạo “không đứng cao nhất” trong đội hình M.U. Nghĩ ngợi làm gì!
Rooney chỉ là một ví dụ. Các cầu thủ khác cũng vậy. Thật ra,
vấn đề của ĐT Anh không chỉ trong thời điểm này mà suốt nhiều
năm gần đây, là con người hơn là lối chơi. Ngày xưa, David
Beckham cũng chẳng bao giờ băn khoăn về lối chơi, vị trí, chiến
thuật. Anh chỉ chạy cánh. Mỗi trận, Beckham có khoảng 4-5 quả
tạt, đưa bóng đến đồng đội ở vị trí có thể ghi bàn. Thế là quá
đủ – nhất nghệ tinh, nhất thân vinh.
Vào thời đỉnh cao của Beckham, quê hương bóng đá còn có Steven
Gerrard, Frank Lampard, Rio Ferdinand, Sol Campbell, Michael
Owen… Vậy nên Tam sư luôn vào tứ kết ở World Cup 2002, 2006
và EURO 2004. Họ không thể đi xa hơn ở những giải ấy đều vì kém
may mắn. Khi có Chris Waddle, Gary Linker, David Platt, Paul
Gascoigne thì ĐT Anh còn mạnh hơn, hay hơn. Họ chỉ dừng bước
trước Đức ở vòng bán kết World Cup 1990, vì thua trong loạt sút
luân lưu. Gascoigne và Platt đạt đến đỉnh cao phong độ tại EURO
1996, khi ĐT Anh có thêm Alan Shearer và Paul Ince. Vậy nên,
EURO 1996 cùng với World Cup 1990, là một trong hai giải đấu
hay nhất của Anh trong kỷ nguyên hiện đại.
Do con người cả thôi. Từ sau khi vô địch World Cup 1966, quê
hương bóng đá mãn nguyện với cách chơi 4-4-2, một “phát minh vĩ
đại”. Vấn đề chiến thuật cũng coi như ngừng phát triển trong
làng bóng Anh từ đó. Với mặt bằng về đẳng cấp như hiện nay, Tam
sư mà không tầm thường thì đấy mới là chuyện lạ.